Hiện nay người sản xuất quá lạm dụng việc sử dụng các loại chất bảo vệ thực vật (BVTV) có chứa nhiều loại chất hóa học trong canh tác nông nghiệp đã dẫn tới tiềm ẩn những nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe không những của người tiêu dùng và chính người sản xuất cũng đang hàng ngày phải đối mặt với nguy cơ nhiễm độc. Việc hạn chế sử dụng thuốc BVTV hóa chất trong sản xuất nông nghiệp là hết sức cần thiết.
Trong sản xuất, việc quá lạm dụng chất BVTV, đặc biệt là các loại chất BVTV hóa học trong quá trình sản xuất các sản phẩm nông nghiệp đã và đang tác động một cách tiêu cực đến hệ sinh thái gây mất cân bằng và dần làm mất đi sự ổn định trong tự nhiên - kể cả khi sử dụng các loại chất BVTV có nguồn gốc tự nhiên không đúng cách. Thuốc BVTV xâm nhập vào môi trường đất làm cho tính chất cơ lý của đất giảm sút, tiêu diệt nhiều vi sinh vật có lợi trong đất, làm hoạt tính sinh học trong đất giảm. Thuốc gây ô nhiễm môi trường nước gồm cả nước mặt và nước ngầm, suy thoái chất lượng nguồn nước, ảnh hưởng đến các sinh vật thủy sinh. Các loại thuốc trừ sâu thường có tính năng rộng, có thể diệt được nhiều loại côn trùng. Do vậy không chỉ sâu bệnh mà cả các động vật, vi sinh vật trong đất, nước, các thiên địch có ích trên đồng ruộng cũng bị tiêu diệt theo. Về lâu dài sẽ làm mất cân bằng sinh thái, giảm đa dạng sinh học, tăng nguy cơ bùng phát dịch hại.
Đó là còn chưa kể đến việc các bao bì, chai lọ chứa đựng thuốc BVTV không được xử lý tốt đã vô hình chung tạo ra một loại rác thải rất khó phân hủy trong đất. Theo tính toán của các chuyên gia, tại Việt Nam, lượng bao bì thuốc BVTV chiếm 14,86%, riêng lượng thuốc bám dính vào bao bì trung bình là 1,85% - 2% và được thải ra môi trường cùng với vỏ bao bì thuốc BVTV thường được làm bằng nhựa, nilon nên rất khó phân hủy đã gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người nông dân cũng như làm giảm đa dạng sinh học, tồn dư trong nông sản và gây một số các bệnh nan y cho con người. Quan trọng hơn hết, việc lạm dụng chất BVTV trong quá trình canh tác nông nghiệp cũng đang gây hại đến chính sức khỏe của người nông dân trong quá trình sử dụng thuốc trên đồng ruộng và người tiêu dùng khi sử dụng các sản phẩm nông nghiệp có tồn dư chất BVTV độc hại này. Các chất độc này có thể tác động trực tiếp đến người tiếp xúc khiến cho họ bị chóng mặt, toát mồ hôi, buồn nôn,…và nặng nề hơn cả là tử vong hay theo di truyền đến đời con cháu chúng ta.
Phun thuốc BVTV phòng trừ sâu bệnh gây hại
Trong nhiều năm qua, mục tiêu phát triển một nền nông nghiệp sạch, bền vững đem lại một hệ thống quản lý, sản xuất nông nghiệp tránh sử dụng phân bón vô cơ và thuốc BVTV đã các cơ quan chức năng, các tổ chức, doanh nghiệp hiện thực hóa bằng nhiều hành động cụ thể. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, phân bón hữu cơ vi sinh,… trong canh tác nông nghiệp đã được coi như những giải pháp hiệu quả để dần thay thế chất BVTV có nhiều dư lượng chất hóa học. Điều này có thể bảo vệ người tiêu dùng, người sản xuất, đồng thời gia tăng và ổn định chất lượng nông sản. Ngoài ra, về mặt môi trường sinh thái, đất được tăng khả năng giữ ẩm và các hệ vi sinh vật có ích phát triển làm đất tơi xốp hơn từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng hấp thu chất dinh dưỡng. Nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng các loại thuốc BVTV và tăng cường sử dụng các sản phẩm thay thế như hiện nay, việc nâng cao nhận thức của người dân về hậu quả của các loại hóa chất BVTV có lưu lượng chất hóa học, chất độc cao đối với môi trường cũng như sức khỏe con người là rất cần thiết.
Điểm thu gom vỏ bao bì thuốc BVTV
Để hạn chế việc sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất, trả lại môi trường sinh thái trong lành, cần sự chung tay của toàn xã hội, sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền địa phương và trên hết là ý thức của chính mỗi người dân. Do đó cần kiểm soát và xử lý nghiêm ngặt việc kinh doanh, buôn bán, sản xuất và sử dụng thuốc BVTV và có các hình thức tuyên truyền nâng cao nhận thức và thay đổi tập quán của nông dân; đẩy mạnh chương trình khuyến nông, sản xuất cây trồng an toàn theo quy trình VietGAP, hữu cơ,… trước hết là ở những vùng trồng rau an toàn, cây ăn quả, nhân rộng mô hình IPM, nhất là trên cây ăn quả, cây lúa,… Xây dựng và củng cố về tổ chức, nội dung hoạt động của mạng lưới dịch vụ BVTV cơ sở. Đẩy mạnh công tác tập huấn cho cán bộ kỹ thuật cơ sở, đại lý bán thuốc BVTV và người nông dân. Tiếp tục vận động các địa phương xây dựng các bể chứa bao bì thuốc BVTV; tìm kiếm, liên kết với doanh nghiệp để xử lý bao bì,… Bên cạnh đó, cần có chính sách và biện pháp khuyến khích để hỗ trợ mọi mặt trong việc sử dụng các loại thuốc BVTV sinh học, thuốc thảo mộc, thuốc thế hệ mới trong sản xuất nông nghiệp,...
Quỳnh Nga |