Trong những năm qua, tình trạng tôm nuôi bị chậm lớn diễn ra tại nhiều vùng nuôi tôm Việt Nam nói chung và Hà Tĩnh nói riêng, gây thiệt hại đáng kể. Tôm chậm lớn do nhiều nguyên nhân, trong đó cần kể nhiễm vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP). Để tránh những thiệt hại nặng nề, người nuôi tôm cần biết và lưu ý một số vấn đề sau:
* Đặc điểm bệnh EHP
- Triệu chứng của bệnh EHP trên tôm thẻ chân trắng không rõ ràng. Khi tôm giống bị nhiễm EHP, thả nuôi trong tháng đầu tiên thường vẫn phát triển bình thường; nhưng sau khi tôm đạt trọng lượng 3 - 4 gram/con, lượng sinh khối tôm trong ao tăng dần thì tôm cũng chậm lớn dần rồi có thể dừng lớn hẳn. Tôm nuôi 90 - 100 ngày tuổi vẫn có thể chỉ đạt cỡ 4 - 5 gram/con.
- Tôm chậm lớn ở đây do vi khuẩn EHP ký sinh trong tế bào gan tuỵ tôm. Vi bào tử trùng này ký sinh nội bào và sử dụng dinh dưỡng, năng lượng dự trữ trong gan tụy, khiến tôm nuôi không đủ dinh dưỡng cho tăng trưởng và lột xác. Tôm càng ăn nhiều thức ăn thì phân thải ra càng nhiều, trong khi bệnh EHP lây qua đường phân - miệng, không cần ký chủ trung gian.
- Có nhiều loại vi bào tử trùng gây bệnh cho tôm, đòi hỏi phải có ký chủ trung gian, như Agmasoma đòi hỏi có ký chủ trung gian trong vòng đời. Tuy nhiên, EHP có thể lây trực tiếp từ con này sang con khác.
* Đặc điểm của chu kỳ sống
- Các vi bào tử gây bệnh cho tôm là các sinh vật ký sinh bắt buộc, thường có chu kỳ phát triển khá phức tạp. Tôm là ký chủ trung gian của vi bào tử trùng. Vật chủ cuối cùng là các loài cá ăn, tôm. Như vậy, trong hệ thống nuôi giáp xác, sự có mặt của các loài cá, hoặc dùng cá tạp làm thức ăn cho tôm, chính là nguồn lây bệnh vi bào tử cho tôm nuôi.
Vi bào tử trùng gây bệnh cho tôm
* Phân bố lan truyền
- Bệnh phân bố ở khắp các vùng nuôi tôm he trên phạm vi toàn thế giới. Ở Việt Nam bệnh vi bào tử cũng đã xuất hiện trên diện tích rộng ở các vùng nuôi tôm trọng điểm gây tổn thương tế bào gan, tụy ở tôm.
* Dấu hiệu bệnh lý:
- Tôm bị bệnh thường giảm ăn, chậm phát triển kèm theo sự xuất hiện các vùng cơ có màu trắng đục hay trắng sữa. Hiện tượng trắng đục dễ nhận biết nhất khi chúng xuất hiện tại vùng cơ vân ở phần bụng.
- Ở tôm lớn dấu hiệu lâm sàng trên càng dễ dàng quan sát hơn, đặc biệt ở phần lưng từ gan tụy đến phần giữa thân hoặc đục cơ ở phần đốt cuối cơ thể.
- Tôm 30 ngày thả nuôi bị nhiễm bệnh có sự hình thành những đám màu trắng lớn, vi bào tử trùng thay thế dần cho hệ gan tụy và các cơ quan khác bao gồm dạ dày và cơ của tôm.
- Các dấu hiệu của tôm bệnh ở giai đoạn 45, 60, 75, 90, 105 và 120 ngày tuổi cho thấy mức độ lây nhiễm vi bào tử trùng càng trở nên nghiêm trọng hơn khi chúng gần như thay thế hoàn toàn hệ gan tụy. Ống gan tụy của những con tôm bị nhiễm bệnh nặng bị giãn rộng và hoại tử.
* Quá trình diễn tiến của bệnh:
- Bệnh bào tử trùng bắt đầu xuất hiện trong ao tôm trong giai đoạn 15 – 20 ngày sau khi thả giống. Sự lây lan bệnh diễn ra mạnh nhất ở giai đoạn 40 – 50 ngày sau khi thả giống.
- Số lượng tôm nhiễm bệnh tăng dần cho đến 60 ngày tuổi, có thể bởi vì ở tôm lớn thì vi bào tử trùng thay thế phần lớn cơ thịt và các cơ quan khác, do đó mà những mảng trắng đục sẽ dễ dàng quan sát hơn so với tôm còn nhỏ. Tôm bị nhiễm vi bào tử trùng nặng thường bị mềm vỏ và chậm lớn hơn những con tôm mạnh khỏe.
- Tỷ lệ phát hiện tôm bệnh trong chài thấp hơn rất nhiều so với tỷ lê tôm bệnh trong sàng ăn. Điều này cho thấy những con tôm bị bệnh không thể cạnh tranh với những con tôm mạnh khỏe trong thời gian cho ăn, vì thế chúng thường tìm đến sàng ăn. Chính vì thế mà việc đánh giá tỷ lệ tôm bệnh bằng cách chài sẽ chính xác hơn là đánh giá qua sàng ăn.
- Tỷ lệ bệnh giảm nhẹ ở giai đoạn 80 – 90 ngày tuổi và đột ngột suy giảm nhanh chóng ở giai đoạn 105 ngày tuổi. Đến thời điểm thu hoạch chỉ còn một ít tôm bị bệnh được tìm thấy với dấu hiệu đục cơ từ phần đầu ngực đến giữa thân ở mặt lưng. Trong giai đoạn này, có thể do tôm bệnh đã chết dần, và khi tôm lớn sức đề kháng bệnh tốt hơn nên tỷ lệ nhiễm bệnh giảm.
* Phương Pháp Chẩn Đoán
- Dựa vào dấu hiệu bệnh lý của bệnh như đục mờ cơ, các cơ vân chuyển sang màu trắng đục.
Biện Pháp Phòng Và Trị Bệnh
* Phòng bệnh:
- Cải tạo ao, xử lý đáy và khu vực xung quanh ao thật kỹ, diệt địch hại, ký chủ trung gian mang mầm bệnh bằng GUARSA.
- Diệt cá tạp bằng SAPONIN, SAPOTECH.
- Dùng GUARSA xử lý nước trước khi cấp vào ao.
- Không dùng tôm bố mẹ nhiễm vi bào tử tham gia sinh sản trong các trại giống, trong ao nuôi tôm thương phẩm, cần phát hiện sớm để loại bỏ những con tôm bị nhiễm vi bào tử ra khỏi quần đàn.
- Định kỳ 7 – 10 ngày cung cấp hệ vi sinh và enzyme có lợi bằng AQUA BIO BZT, BACPOWER tạo môi trường sống thuận lợi cho tôm.
- Thường xuyên bổ sung C MIX 25%, BIOTICBEST, BIOZYM-S, HEPAVIROL Plus, MUNOMAN vào thức ăn giúp tăng cường sức khỏe, tăng cường hoạt động hệ miễn dịch của tôm.
- Tạt khoáng MIRAMIX N10 hoặc CALCIPHORUS định kỳ.
* Trị bệnh:
- Thay nước vào ao sẽ làm giảm đáng kể sự lây lan của bệnh.
- Sử dụng GUARSA 0,3 – 0,8 kg/1000 m3 nước. Sau 24 giờ, cấy lại vi sinh AQUA BIO BZT, DEODORANTS hoặc BACPOWER để tăng cường vi sinh có lợi cho ao.
- Bổ sung dưỡng chất C MIX 25%, BIOTICBEST, BIOZYM-S, HEPAVIROL Plus, MUNOMAN vào thức ăn giúp tăng cường sức khỏe, tăng cường hoạt động hệ vào thức ăn, giúp tăng cường sức khỏe, giúp tôm mau hồi phục.
- Tạt khoáng MIRAMIX N10 hoặc CALCIPHORUS.
* Liều lượng và cách sử dụng các loại thuốc, CPSH, chất diệt tạp… theo hướng dẫn của nhà sản xuất tuỳ theo điều kiện thực tế, mức độ nhiễm bệnh.
Hiện nay bệnh vi bào tử trùng xẩy ra trên tất cả các vùng nuôi tôm của Hà Tĩnh, bệnh diễn biến chậm và rất khó phát hiện, khi tôm bị bệnh nặng thì giải pháp trị bệnh không hiệu quả. Chính vì vậy người nuôi tôm cần lựa chọn các cơ sở cung cấp nguồn giống có thương hiệu, có uy tín, nguồn giống trước khi thả nuôi cần phải kiểm dịch đầy đủ, nguồn tôm giống bố mẹ có lý lịch rõ ràng, đồng thời trong quá trình cải tạo ao đầm và chăm sóc quản lý tôm yêu cầu tuân thủ nghiêm quy trình kỹ thuật./.
Trương Huy Dũng
|