Với mục tiêu đánh giá được một số chỉ tiêu sinh trưởng của loài keo tai tượng trên địa bàn 2 huyện Hương Sơn và Hương Khê làm cơ sở đề xuất các biện pháp tác động nhằm nâng cao năng suất và chất lượng gỗ theo mục tiêu kinh doanh gỗ nhỏ, từ tháng 9/2016 đến tháng 3/2017, Trung tâm Khuyến nông đã triển khai mô hình “Điều tra, khảo sát ảnh hưởng mật độ đến sinh trưởng rừng trồng keo tai tượng tại 2 huyện Hương Khê và Hương Sơn”.
Keo tai tượng là loài cây lá rộng, mọc nhanh, mọc được trên nhiều loại đất, có biên độ sinh thái rộng, phù hợp cho trồng rừng trên quy mô lớn. Ngoài việc cung cấp nguyên liệu cho công nghệp sản xuất giấy, ván nhân tạo gỗ của loài cây này còn được sử dụng cho các mục đích khác như xây dựng, trang trí nội thất, gỗ củi,… Đây cũng là loài cây có nốt sần có khả năng tổng hợp nitơ trong không khí rất cao, thích ứng với nhiều điều kiện đất đai, khí hậu nên Keo tai tượng là một trong những loài cây đáp ứng được mục tiêu của trồng rừng sản xuất trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài. Tuy nhiên những nghiên cứu về sinh trưởng và phát triển thì còn hạn chế, người dân trồng Keo chủ yêu dựa vào kinh nghiệm, tập quán, họ chưa biết nên trồng ở mật độ nào, khai thác tuổi nào thì cho năng suất cao nhất. Vì vậy tiến hành điều tra, khảo sát ảnh hưởng mật độ đến sinh trưởng rừng trồng Keo tai tượng là hết sức cần thiết nhằm khuyến cáo được cho người dân mật độ nào tương đương độ tuổi nào thì khai thức có hiệu quả nhất.
Điều tra, khảo sát ảnh hưởng mật độ đến sinh trưởng rừng trồng Keo tai tượng tại Hương Sơn
Mô hình đã tập trung đánh giá các chỉ tiêu sinh trưởng như đường kính ngang ngực, chiều cao vút ngọn và chất lượng rừng trồng Keo tai tượng tuổi 4, tuổi 5 và tuôi 6. Điều tra một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng như đất đai, địa hình, mật độ, con người; xác định mật độ tối ưu cho từng độ tuổi từ đó đề xuất một số biện pháp kỹ thuật nhằm nuôi dưỡng rừng trồng Keo tai tượng phù hợp với Hà Tĩnh để khuyến cáo cho người dân. Mô hình được triển khai tại các xã Lộc Yêu, Hương Thủy, Hà Linh huyện Hương Khê, Sơn Tây, Sơn Diệm, Sơn Trường huyện hương Sơn.
Với phương pháp điều tra trên các ô tiêu chuẩn để thu thập những số liệu về sinh trưởng, ở mỗi độ tuổi lập các ô tiêu chuẩn ở các mật độ khác nhau để so sánh, mỗi ô có diện tích 500m2, sau đó tiến hành đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng của tất cả các cây trong ô. Ngoài ra còn sử dụng thêm phương pháp phỏng vấn, lập phiếu câu hỏi để điều tra từ phía người dân trực tiếp trồng rừng về khả năng, trình độ kỹ thuật, phương pháp lựa chọn đất đai, các biện pháp lâm sinh đã áp dụng, những thuận lợi và khó khăn khi tiến hành trồng, nuôi dưỡng và bảo vệ rừng, những đề xuất giải pháp của họ. Sau 6 tháng triển khai thực hiện mô hình đã đạt được những kết quả cao, theo kết quả điều tra, khảo sát thực tế tại các xã cho thấy các chỉ tiêu về sinh trưởng như chiều cao vút ngọn, đường kính tán, đường kính ngang ngực ở các mật độ trồng và tuổi khác nhau là khác nhau. Tại tuổi 4, bên cạnh các yếu tố không thuận lợi về điều kiện đất đai, thì việc tiến hành tỉa thưa thiếu khoa học cũng là một nguyên nhân khiến các cá thể trong lâm phần phải cạnh tranh nhau về không gian dinh dưỡng nên sự phân hóa các chỉ tiêu sinh trưởng là khá rõ ràng. Đến các tuổi tiếp theo lúc này do sắp đến chu kỳ khai thức nên sức sinh trưởng giữa các cây trong lầm phần là tương đối đồng đều nhau. Về giá trị trung bình chung cho toàn lâm phần khi so sánh cho thấy mức sinh trưởng của Keo tai tượng tại khu vực điều tra là chưa cao, số lượng cây sinh trưởng kém vẫn còn nhiều.
Qua quá trình điều tra, khảo sát, phân tích các số liệu đã xác định được mật độ tối ưu mà tại đó lầm phần cho trữ lượng hay tăng trưởng lâm phần trên đơn vị diện tích cao nhất. Trên cơ sở xác định mật độ tối ưu cho từng độ tuổi và tính hiệu quả kinh tế của từng mật độ trồng khác nhau dựa trên các yếu tố về đất đai, khí hậu và các biện pháp tác động của con người cho thấy ở tuổi 4 với mật độ tối ưu 1960 cây/ha cho lợi nhuận là 36 triệu đồng/ha, ở tuổi 5 với mật độ tối ưu 1373 cây/ha cho lợi nhuận cao nhất là 43 triệu đồng/ha và ở tuổi 6 mật độ tối ưu nhất là 1152 cây/ha cho lợi nhuận 71 triệu đồng/ha. Đây là mật độ tối ưu cho mổi tuổi khai thác đã được khuyến cáo là hoàn toàn phù hợp với điều kiện đất đai và khả năng canh tác của nông dân tại 2 huyện Hương Khê và Hương Sơn.
Phát biểu tại buổi nghiệm thu mô hình, ông Nguyễn Đức Sâm ở xã Sơn Tây cho biết: Qua cách làm rất cụ thể, chịu khó với các số liệu thực tế tại địa bàn đã đưa ra được mật độ nào khai thác ở tuổi nào có hiệu quả nhất đã giúp cho các chủ rừng có cơ sở khoa học trong việc trồng và khai thác rừng nhằm giảm công chăm sóc và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Từ kết quả bước đầu của mô hình Điều tra khảo sát ảnh hưởng mật độ đến sinh trưởng rừng trồng keo tai tượng tại 2 huyện Hương Khê và Hương Sơn, đã giúp các chủ rừng có cơ sở tác động các biện pháp kỹ thuật để rút ngắn chu kỳ kinh doanh mà vẫn mang lại hiệu quả kinh tế cao. Góp phần tăng thu nhập cho người dân miền núi, đồng thời bảo vệ đất, bền vững môi trường sinh thái và ứng phó với biến đổi khí hậu./.
Hồng Thuận |